Tính Không trong triết học Phật giáo

Không được hiểu như một phủ định từ – đối lập với có. Khi thấy sự vật hiện hữu thì ta gọi là có, nhưng khi nó biến mất ta lại cho nó là không. Vì thế, Không thường bị hiểu là triệt tiêu, hư vô.

Trong Phật giáo, cái Không này được hiểu là không có thực thể cố định (chứ không phải là hư vô, không có gì hết, không hiện hữu). Có và không là hai mặt của sự vật từ lúc sinh ra cho đến khi chấm dứt, cũng tức là mọi hiện hữu vừa là nó vừa không phải là nó.

Chúng ta phải chấp nhận một sự thật hiển nhiên rằng, các sự vật hiện tượng trên thế gian này vốn từ cái không mà sinh ra thành có, rồi lại từ cái có mà thay đổi, biến hoại và trở về không. Từ đó, đức Phật cho rằng, vạn vật không có tướng trạng cố định, thế giới là rỗng không như bọt nước.

Mưa sinh ra ở trời, chết đi ở đất, khoảng giữa chính là nhân sinh.

Hình trên mạng nhưng chắc là Vương Lâm

Khi nhìn từ bề mặt thì sự xuất hiện của một sự vật nào đó là sinh, sự tan rã của sự vật là diệt. Đức Phật cho rằng, bởi ta cắt xén thời gian, dựa vào khúc đoạn hữu hạn của thời gian mà xét, nên mới có sự sinh và diệt. Nếu tách khái niệm thời gian, không gian khỏi sự vật hay nới rộng thời gian vô cùng, vô tận thì khái niệm sinh và diệt này không còn nữa. Nếu đứng từ góc độ thời gian vô cùng tận đó để xem xét sự vật, hiện tượng, thì sự xuất hiện của sự vật, hiện tượng không phải là sinh, sự biến mất của chúng cũng không phải là diệt. Việc đến hay đi trên đời này đều do duyên, mọi sự chỉ là giả hợp mà có. Đức Phật gọi hình tướng của sự vật, hiện tượng trong quá trình sinh diệt, diệt sinh không ngừng này là Không hay không tướng (con người và vạn vật đều là không, chẳng có tướng trạng bền vững).

Phật giáo dùng cặp phạm trù “sắc – không” vừa để chỉ sự hiện hữu của các sự vật hiện tượng (sắc), lại vừa để khẳng định tính vô ngã của chúng (không). Tương quan giữa sắc và không là “tương y tương thành”, tức là dựa vào nhau mà cùng tác thành cho nhau. Điều này khó có thể biểu đạt được bằng ngôn ngữ và nhận thức thông thường. Vì thế, Phật giáo dùng một loạt từ phủ định để nói rõ tính Không của nó, tiến hành phá trừ một cách sâu sắc, tuyệt đối pháp vô ngã.

Như vậy, vạn vật tuy có hình tướng, nhưng đó chỉ là giả tướng, giả hợp; thực tính của mọi hiện hữu là Không; vạn vật vô tự tính, thực tại không có bản chất thường hằng, không có một hình tướng cố định, chứ không phải là không hiện hữu.

Tính Không qua Duyên sinh và giả hợp

Thuyết Duyên sinh (Duyên khởi), hay còn gọi là thuyết Nhân duyên sinh hoặc Thập nhị nhân duyên, là bản thể luận của Phật giáo về sự sinh thành, biến dịch của vạn vật trong vũ trụ. Nhân duyên là những quan hệ biện chứng trong không gian và thời gian giữa các sự vật. Một sự vật bất kỳ đều ảnh hưởng dây chuyền (duyên) đến các sự vật khác. Sự vật không có chủ thể, chỉ hư ảo tạm thời, sinh ra vì nhân duyên hòa hợp (Sắc), diệt đi vì nhân duyên tan rã (Không). Tất cả muôn vật đều do duyên giả hợp, nên đều là Không. Mọi vật đều trải qua quá trình thành – trụ – hoại – không (sinh thành, phát triển, biến hoại và diệt vong) trong muôn vàn mối quan hệ nhân duyên chằng chịt, ràng buộc lẫn nhau, không thể tách rời như biểu đồ hình Sin.

Cái này hội đủ điều kiện, nhân duyên thì sinh thành ra cái kia, cái kia đủ điều kiện thì lại sinh ra cái khác, như thế tạo thành một dòng chảy liên tục cả về không gian và thời gian. Vì mối tương quan này được nối dài không giới hạn, nên xét đến cùng, thì tất cả mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ đều liên quan với nhau, đều nương theo nhau mà sinh khởi và tồn tại. Tất cả mọi sự vật, hiện tượng đều mang tính cấu hợp và không hàm chứa một thực thể có tự tính nội tại độc lập nào cả. Sự vắng mặt của thực thể độc lập và trường tồn ấy gọi là sự trống không, hay tính Không của chúng. Phật giáo coi triết lý Duyên khởi tính Không là nguyên lý phổ quát tuyệt đối của mọi tồn tại, từ vật vô tri đến vật hữu tình như con người.

Trong văn hóa đương đại, để miêu tả về quan hệ nhân quả trên có một cụm từ là “hiệu ứng bươm bướm“.

Hiệu ứng bươm bướm cho ai có ý định tham khảo.

Theo thuyết Duyên sinh, con người cũng chỉ là một giả hợp của ngũ uẩn . Trong đó, sắc uẩn là yếu tố vật chất tạo nên thân thể con người, bốn uẩn còn lại là thọ (cảm giác), tưởng (tri giác), hành (suy tư), thức (ý thức) cấu thành nền tảng tinh thần, trạng thái tâm lý của con người. Phật giáo cho rằng, năm uẩn đều không thật, đợi duyên hợp mới có nên thể tính là Không.

spiderum.com

Leave a Comment